Tác phẩm Antonín_Dvořák

Bản mẫu:Viz téžNghệ thuật của ông hoàn toàn là sự tổng hợp nhạc cổ điển lãng mạn độc đáo. Sức mạnh và sự xuất sắc của nhà soạn nhạc đương thời trước hết ở trong các dàn nhạc và nhạc cụ. Sự phát triển khả năng sáng tạo của ông đi qua những chặng đường: bản nhạc đầu tiên được xây dựng từ sự kế thừa của BeethovenSchubert, chặng thứ hai là sự nỗ lực cố gắng của ông hoàn toàn bằng cảm giác riêng của ông, khi mà ông hoàn toàn hiểu được sự cơ bản và đặc biệt của âm nhạc. Thời kỳ thứ 3 là bước ngoặt điển hình cho chủ đề người yêu nước và nguồn cảm hứng âm nhạc Séc (bản nhạc "Hymnus", "Moravské dvojzpěvy"). Những màu sắc riêng thêm vào âm nhạc của ông những cố gắng về tính chất Sloven của các tác phẩm nói chung, bằng cách đó đã làm giàu thêm cho sự sáng tạo âm nhạc đặc sắc nhất thế giới. Tương tự (tuy không nói đến tính chất Séc và Sloven) trong thời gian ở Mĩ ông được tạo cảm hứng từ âm nhạc của nhữn người da đen và những người Ấn, từ đó mà ông đã sáng tác ra bản giao hưởng số 9 Bản giao hưởng thế giới mới (tiếng Séc "Novosvětská", tác phẩm thuộc vào hàng những tác phẩm tốt nhất của thể loại này trong suốt lịch sử âm nhạc. Ở cuối thời kỳ cuối ông thấy và thể hiện được độc đáo và đặc sắc trong quan hệ giữa cảm hứng cổ tích Séc và truyện thần thoại thể hiện ở các bản Opera Con quỷ và cô gái (tiếng séc Čert a Káča) và nàng tiên nước (tiếng Séc Rusalka).

Ông đã viết tất cả chín bản giao hưởng, một số bài thơ giao hưởng, các bản nhạc nhạc khí lớn (điệu nhảy Sloven (Slovanský tance), âm, âm-nhạc khí "Stabat Mater", "Svatá Ludmila", "Cầu hồn" (Rekviem), "Te Deum", 5 khúc giạo đầu hòa nhạc, một bản số nhạc thính phòng (nổi tiếng nhất là Smyčcový kvartet F-dur, được gọi là Americký), các bản concerto (cho vi ô lông, violoncellový và bản concerto cho dương cầm, bài hát kinh thánh (Biblické pisně), dàn đồng ca, các bản nhạc cho dương cầm (phiên bản của "điệu nhảy Sloven (Slovanský tanec), phiên bản giao hưởng muộn hơn), 10 bản Opera mà nổi tiếng nhất là "Nàng tiên nước (Rasulka)", "Jakobín", "Con quỷ và cô gái (Čert a Káča)", "Dimitrij", "Armida".

Các tài liệu khác nhau và những di vật (bản viết nhạc, chỉnh sửa, danh sách vật dụng, tác phẩm tạo hình, ảnh thời đó, chương trình, tờ quảng cáo) về nhà soạn nhạc này được đặt ở bảo bàng Antonín Dvořák, tồn tại từ năm 1932 chia sẻ với biệt thự ba rốc Michn ở Praha.

Những tác phẩm của ông giàu về số lượng cũng như đa dạng về thể loại, người ta ước tính khoảng 120 nhạc phẩm, trong đó hầu hết là những tác phẩm giao hưởng lớn, âm-khí cụ hoặc các tác phẩm kịch opera.